Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2011

PHẪU THUẬT TẠO HÌNH NIỆU ĐẠO - ÂM ĐẠO - HẬU MÔN NGÃ SAU TRONG ĐIỀU TRỊ DỊ DẠNG TỒN TẠI Ổ NHỚP Ở NỮ

Mục tiêu: Mục tiêu nghiên cứu nầy nhằm mô tả 4 trường hợp tồn tại ổ
nhớp được phẫu thuật tại Khoa Ngoại Bệnh viện Nhi Đồng 1.
Phương pháp: Trong 2 năm (2003-2004) tại Khoa Ngoại Bệnh viện Nhi
Đồng 1, chúng tôi đã phẫu thuật 4 trường hợp tồn tại ổ nhớp tiếp cận qua đường
sau với 3 mục đích: tạo hình hậu môn trực tràng, phẫu thuật âm đạo, tái tạo âm đạo và niệu đạo.
Kết quả: Tất cả bệnh nhi được tiếp cận qua đường sau , Có 4 trường hợp là

nữ trong nghiên cứu nầy. Tuổi trung bình là 2,5 tuổi (từ 1 đến 4 tuổi). Nội soi âm
đạo trước phẫu thuật: 2/5 trường hợp. Tất cả bệnh nhi được làm hậu môn tạm (đại
tràng sigma 3, đại tràng ngang 1). Đóng hậu môn tạm 3 tháng sau khi thực hiện
phẫu thuật triệt để. Chiều dài của kênh chung thay đổi từ 3 đến 6 cm. 3 trong số đó
được yêu cầu mở bụng. Thời gian phẫu thuật trung bình 6 giờ (từ 3 – 9 giờ). Thời
gian hậu phẫu 15 ngày. Thẩm mỹ: bộ phận sinh dục ngoài bình thường. Chức
năng: tốt.
Kết luận: Tồn tại ổ nhớp là một di dạng hiếm và phức tạp. Phẫu thuật viên
cần phải trải qua một chương trình huấn luyện về niệu sinh dục, thời gian phẫu
thuật dài, đòi hỏi kỹ thuật phải thật chính xác.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tồn tại ổ nhớp là một trong những dị dạng hiếm gặp. Theo tiếng La Tinh “ổ
nhớp” (cloaca) có nghĩa là “cống rãnh” (sewer). Ở loài chim, loài bò sát và một số
loài cá ổ nhớp là 1 giải phẫu bình thường, nhưng ở loài người đó là một tai họa. 

Tồn tại ổ nhớp thường gặp ở nữ. Vào cuối tuần thứ 7 của phôi vách niệu-
dục và vách dục-trực tràng phát triển xuống màng nhớp chia màng nhớp thành
màng niệu-dục ở phía bụng và màng hậu môn ở phía lưng. Màng hậu môn tự tiêu
đi làm thông trực tràng với ống hậu môn. Màng niệu-dục cũng tự tiêu đi để lại lỗ
tiểu và lỗ âm đạo.
Dị dạng tồn tại ổ nhớp thể điển hình là hậu quả của vách ngăn chưa xuống
giáp tầng sinh môn mà màng nhớp đã tự tiêu sớm đi, do đó lỗ niệu đạo, lỗ âm đạo
và lỗ hậu môn đều đỗ chung vào một cái hõm dưới âm đạo. 
Lâm sàng thể hiện ở một bé gái không có hậu môn kèm bộ phận sinh dục
ngoài nhỏ. Nội soi va mang trinhdo choi tinh ducam dao giaphau thuat tham my thấy được 3 lỗ niệu đạo, âm đạo và hậu môn đều đỗ chung
vào một chỗ. Dị dạng tồn tại ổ nhớp thường kết hợp dị dạng đường tiết niệu như
thận nước, dãn niệu quản, trào ngược, giảm sản thận và bàng quang thần kinh.
Tồn tại ổ nhớp thể cao (kênh chung dài) thường kết hợp bất thường xương cụt và
cơ.
Phẫu thuật điều trị tồn tại ổ nhớp là một trong những phẫu thuật khó. Mục
đích của phẫu thuật là tách rời và tái tạo niệu đạo, âm đạo và hậu môn trực tràng
với chức năng và hình dáng bên ngoài đạt được gần như bình thường. 
Bài báo cáo nhằm giới thiệu phẫu thuật tạo hình niệu đạo -âm đaọ- hậu môn
trực tràng qua ngã sau (posterior sagittal anorectovaginourethro plasty) và  đánh giá kết quả điều trị ban đầu ở những bệnh nhân nữ có dị dạng tồn tại ổ nhớp đã
được phẫu thuật tại Khoa Ngoại BVNĐ1 trong1 năm (8/2003- 8/2004).: Mục tiêu nghiên cứu nầy nhằm mô tả 4 trường hợp tồn tại ổ
nhớp được phẫu thuật tại Khoa Ngoại Bệnh viện Nhi Đồng 1.
Phương pháp: Trong 2 năm (2003-2004) tại Khoa Ngoại Bệnh viện Nhi
Đồng 1, chúng tôi đã phẫu thuật 4 trường hợp tồn tại ổ nhớp tiếp cận qua đường
sau với 3 mục đích: tạo hình hậu môn trực tràng, tái tạo âm đạo và niệu đạo.
Kết quả: Tất cả bệnh nhi được tiếp cận qua đường sau , Có 4 trường hợp là
nữ trong nghiên cứu nầy. Tuổi trung bình là 2,5 tuổi (từ 1 đến 4 tuổi). Nội soi âm
đạo trước phẫu thuật: 2/5 trường hợp. Tất cả bệnh nhi được làm hậu môn tạm (đại
tràng sigma 3, đại tràng ngang 1). Đóng hậu môn tạm 3 tháng sau khi thực hiện
phẫu thuật triệt để. Chiều dài của kênh chung thay đổi từ 3 đến 6 cm. 3 trong số đó
được yêu cầu mở bụng. Thời gian phẫu thuật trung bình 6 giờ (từ 3 – 9 giờ). Thời
gian hậu phẫu 15 ngày. Thẩm mỹ: bộ phận sinh dục ngoài bình thường. Chức
năng: tốt.
Kết luận: Tồn tại ổ nhớp là một di dạng hiếm và phức tạp. Phẫu thuật viên
cần phải trải qua một chương trình huấn luyện về niệu sinh dục, thời gian phẫu
thuật dài, đòi hỏi kỹ thuật phải thật chính xác.

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tồn tại ổ nhớp là một trong những dị dạng hiếm gặp. Theo tiếng La Tinh “ổ
nhớp” (cloaca) có nghĩa là “cống rãnh” (sewer). Ở loài chim, loài bò sát và một số
loài cá ổ nhớp là 1 giải phẫu bình thường, nhưng ở loài người đó là một tai họa. 

Tồn tại ổ nhớp thường gặp ở nữ. Vào cuối tuần thứ 7 của phôi vách niệu-
dục và vách dục-trực tràng phát triển xuống màng nhớp chia màng nhớp thành
màng niệu-dục ở phía bụng và màng hậu môn ở phía lưng. Màng hậu môn tự tiêu
đi làm thông trực tràng với ống hậu môn. Màng niệu-dục cũng tự tiêu đi để lại lỗ
tiểu và lỗ âm đạo.
Dị dạng tồn tại ổ nhớp thể điển hình là hậu quả của vách ngăn chưa xuống
giáp tầng sinh môn mà màng nhớp đã tự tiêu sớm đi, do đó lỗ niệu đạo, lỗ âm đạo
và lỗ hậu môn đều đỗ chung vào một cái hõm dưới âm đạo. 
Lâm sàng thể hiện ở một bé gái không có hậu môn kèm bộ phận sinh dục
ngoài nhỏ. Nội soi thấy được 3 lỗ niệu đạo, âm đạo và hậu môn đều đỗ chung
vào một chỗ. Dị dạng tồn tại ổ nhớp thường kết hợp dị dạng đường tiết niệu như
thận nước, dãn niệu quản, trào ngược, giảm sản thận và bàng quang thần kinh.
Tồn tại ổ nhớp thể cao (kênh chung dài) thường kết hợp bất thường xương cụt và
cơ.
Phẫu thuật điều trị tồn tại ổ nhớp là một trong những phẫu thuật khó. Mục
đích của phẫu thuật là tách rời và tái tạo niệu đạo, âm đạo và hậu môn trực tràng
với chức năng và hình dáng bên ngoài đạt được gần như bình thường. 
Bài báo cáo nhằm giới thiệu phẫu thuật tạo hình niệu đạo -âm đaọ- hậu môn
trực tràng qua ngã sau (posterior sagittal anorectovaginourethro plasty) và  đánh giá kết quả điều trị ban đầu ở những bệnh nhân nữ có dị dạng tồn tại ổ nhớp đã
được phẫu thuật tại Khoa Ngoại BVNĐ1 trong1 năm (8/2003- 8/2004).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét